Luật Toàn Long Chuyên Giấy Phép, Doanh Nghiệp, Thừa Kế, Hôn Nhânhttps://luattoanlong.vn/uploads/logo1-1.png
Thứ tư - 03/04/2024 04:26
Quyền khởi kiện là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì người đó có quyền làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
1. Quyền khởi kiện theo quy định của BLTTDS Điều 161 BLTTDS năm dân sự năm 2015 quy định như sau: 1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyên khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác; 2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là hành vi của các cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền, tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp đưa vấn đề có tranh chấp ra trước tòa án có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định nhằm yêu cầu được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 186 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Do vậy, đương sự có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì đương sự có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc khởi kiện nếu xét thấy cần thiết. Còn trường hợp không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ thay họ khởi kiện. Đối với các chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì việc khởi kiện sẽ do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện. 2. Quyền khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên Đối với đương sự là người chưa thành niên, quyền khởi kiện của họ có những đặc thù khác với quyền khởi kiện của đương sự đã thành niên. Đặc thù này xuất phát từ đặc điểm người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Vì vậy, khi thực hiện quyền khởi kiện, đương sự là người chưa thành niên có thể khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp luật của họ. Cụ thể: - Đối với trường hợp người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, họ có hạn chế về mặt nhận thức, hiểu biết pháp luật... nên chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình khi bị xâm phạm. Vì vậy, cần thiết có người đại diện cho họ đứng ra khởi kiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. - Đôi với người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi nếu đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì được quyền khởi kiện về quan hệ pháp luật dân sự hoặc lao động mà họ tham gia, bởi vì, bản thân người đó đã tự nhận thức được về quyền lợi của mình một cách tương đối. 3. Điều kiện khởi kiện của người chưa thành niên Người chưa thành niên có người đại diện theo pháp luật hay tự mình tham gia pháp luật tố tụng, để có tư cách nguyên đơn trong vụ án, họ phải đáp ứng những điều kiện sau: Thứ nhất, để có tư cách nguyên đơn trong vụ án dân sự, người chưa thành niên phải tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình có tranh chấp đó. Thứ hai, người chưa thành niên khi khởi kiện vụ án dân sự với mục đích yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, họ phải có nghĩa vụ xác định được lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nếu không xác định được lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là gì thì không thể đặt ra vấn đề khởi kiện. Thứ ba, yêu cầu khởi kiện của người chưa thành niên phải được thể hiện qua đơn khởi kiện gửi Tòa án. Hình thức và nội dung của đơn khởi kiện phải đáp ứng theo yêu cầu của pháp luật được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2015. Ngoài đơn khởi kiện, trong từng vụ án cụ thể, Tòa án cũng yêu cầu người khởi kiện cung cấp các tài liệu, chứng cứ kèm theo. 4. Về thủ tục khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên Điểm b khoản 2 Điều 189 BLTTDS 2015 quy định:“Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ”. Do đó, người chưa thành niên có một số đặc điểm riêng về nhận thức và tâm lý nên pháp luật cũng quy định việc làm đơn khởi kiện của người chưa thành niên phải phụ thuộc vào người đại diện hợp pháp của họ, khi đó, người đại diện hợp pháp có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và ở phần cuối đơn phải có xác nhận (ký tên, điểm chỉ…) của người đại diện hợp pháp của họ.
Khuyến nghị:
1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Luật Toàn Long thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến từ các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tuy nhiên, người đọc chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi các ý kiến đưa ra chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Mọi yêu cầu giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Luật Toàn Long qua Tổng đài tư vấn pháp luật Tư vấn: 0936.521.533, E-mail: luattoanlong@gmail.com.