Trường hợp nhận được tiền chuyển khoản nhầm từ người khác chuyển đến thì việc có được số tiền này được xác định là một trường hợp được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 579 Bộ luật dân sự 2015 thì người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có nghĩa vụ phải hoàn trả tài sản, cụ thể quy định như sau:
“Điều 579. Nghĩa vụ hoàn trả
1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
…”
Từ đó, có thể thấy khi nhận được một số tiền do người khác chuyển nhầm người nhận được số tiền này không được tự ý rút tiền để tiêu mà phải có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu tài sản, nếu không tìm được chủ sở hữu thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định. Người nhận chuyển khoản nhầm chỉ được sở hữu, sử dụng số tiền chuyển nhầm nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự, cụ thể: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Trường hợp sau khi phát hiện chuyển tiền nhầm, người chuyển tiền nhầm chứng minh được việc chuyển nhầm và có yêu cầu người nhận được số tiền hoàn trả lại cho mình mà người nhận tiền chuyển nhầm không hoàn trả thì người nhận tiền có thể bị xử lý theo pháp luật.
Lúc này, hành vi không trả tiền có thể coi là hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác, tùy từng số tiền, tùy từng hành vi cụ thể mà người nhận chuyển tiền nhầm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP với mức phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc nếu số tiền chiếm giữ trái phép từ 10 triệu đồng trở lên, đã được người chuyển tiền nhầm, các cơ quan có thẩm quyền liên hệ yêu cầu hoàn trả số tiền mà bên nhận chuyển tiền nhầm cố tình không trả thì còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản theo quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Tóm lại, trong trường hợp nhận được số tiền lạ chưa xác định người nhận tiền không nên tự ý sử dụng, hoặc nếu đã sử dụng thì khi có thông báo của người chuyển khoản xác định số tiền số tiền chuyển khoản là chuyển nhầm thì người nhận tiền nên hoàn trả để tránh các rủi ro pháp lý xảy ra đối với mình.
1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Luật Toàn Long thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến từ các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tuy nhiên, người đọc chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi các ý kiến đưa ra chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Mọi yêu cầu giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Luật Toàn Long qua Tổng đài tư vấn pháp luật Tư vấn: 0936.521.533, E-mail: luattoanlong@gmail.com.